Nhiệt thải là gì? Các công bố khoa học về Nhiệt thải

Nhiệt thải là lượng nhiệt được tỏa ra trong quá trình sản xuất, chế biến, vận hành các công trình công nghiệp, hệ thống điện, gia đình và các hoạt động khác. Nh...

Nhiệt thải là lượng nhiệt được tỏa ra trong quá trình sản xuất, chế biến, vận hành các công trình công nghiệp, hệ thống điện, gia đình và các hoạt động khác. Nhiệt thải có thể gây ra nhiều vấn đề môi trường như tăng hiệu ứng nhà kính, ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến chất lượng không khí, nước và đất. Việc quản lý hiệu quả nhiệt thải là một phần quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Nhiệt thải là lượng nhiệt mà một hệ thống hoặc quá trình sản xuất, chế biến tạo ra và không được sử dụng hoàn toàn. Nhiệt thải thường là kết quả của quá trình chuyển đổi năng lượng từ hệ thống thành các dạng khác, ví dụ như nhiệt năng bị "phân hủy" thành nhiệt năng thất thoát vào môi trường.

Nhiệt thải có thể được phát ra từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm các nhà máy nhiệt điện, nhà máy chế biến, hệ thống làm lạnh, công nghệ sản xuất và vận hành các phương tiện giao thông, và ngay cả hoạt động hàng ngày trong các hộ gia đình.

Hiệu ứng của nhiệt thải có thể gây nên một số vấn đề môi trường lớn. Khi nhiệt thải được xả thẳng vào môi trường, nó có thể làm tăng nhiệt độ trong các khu vực xung quanh, dẫn đến biến đổi khí hậu. Nhiệt thải cũng gây nên hiệu ứng đô thị, làm tăng nhiệt độ thành phố so với nông thôn xung quanh. Hơn nữa, một số loại nhiệt thải có thể chứa các chất độc hại và ô nhiễm, ảnh hưởng đến chất lượng không khí, nước và đất.

Quản lý hiệu quả nhiệt thải đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Các biện pháp quản lý có thể bao gồm cải tiến công nghệ sản xuất và vận hành để tận dụng nhiệt thải và tái sử dụng nó trong hệ thống, giảm sự thất thoát của nhiệt vào môi trường. Đồng thời, việc áp dụng các quy định và tiêu chuẩn nghiêm ngặt về xử lý và thải nhiệt thải cũng là cách để hạn chế tác động xấu của nhiệt thải lên môi trường.
Dưới đây là một số chi tiết hơn về nhiệt thải:

1. Nguồn gốc nhiệt thải: Nhiệt thải được tạo ra từ việc chuyển đổi năng lượng. Trong các nhà máy nhiệt điện, ví dụ, nhiệt thải được tạo ra khi nhiên liệu như than hoặc dầu được đốt cháy để sản xuất nhiệt để chuyển thành điện. Trong quá trình này, không phải toàn bộ năng lượng được chuyển đổi thành điện mà một phần năng lượng bị thất thoát dưới dạng nhiệt thải. Tương tự, trong các quá trình chế biến và sản xuất khác, nhiệt thải tồn tại do các quá trình chuyển đổi năng lượng.

2. Các hệ thống và quá trình tạo ra nhiệt thải: Như đã đề cập, nhiệt thải xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ, hệ thống làm lạnh được sử dụng trong các nhà máy, siêu thị và các tòa nhà chung cư cũng tạo ra nhiệt thải. Trong quá trình làm lạnh, không chỉ nhiệt được lấy từ môi trường mà còn phải có nhiệt thải được thải ra. Các phương tiện giao thông như xe ô tô cũng tạo ra nhiệt thải từ tiến lươnghoặc lùi và từ quá trình đốt nhiên liệu.

3. Tác động của nhiệt thải: Nhiệt thải có thể gây ra nhiều vấn đề môi trường. Các vấn đề chính bao gồm:

- Tăng hiệu ứng nhà kính: Nhiệt thải chủ yếu là nhiệt năng không cần thiết được thải ra môi trường. Khi nhiệt thải tăng lên, nhiệt độ môi trường cũng tăng. Điều này góp phần vào tác động như hiệu ứng nhà kính, là nguyên nhân chính của biến đổi khí hậu.

- Ô nhiễm môi trường: Nhiệt thải có thể chứa các chất độc hại như khí thải từ quá trình đốt cháy nhiên liệu và các hợp chất hóa học trong các quá trình sản xuất. Khi nhiệt thải này xả vào môi trường, nó có thể gây ô nhiễm không khí, nước và đất.

- Tác động lên hệ sinh thái: Nhiệt thải có thể làm thay đổi nhiệt độ và cấu trúc của các hệ sinh thái tự nhiên, ảnh hưởng đến động, thực vật và các loại sinh vật khác. Nó có thể làm thay đổi các vùng sinh thái và gây ra suy thoái môi trường sống.

4. Biện pháp giảm thiểu nhiệt thải: Để giảm thiểu tác động của nhiệt thải lên môi trường, có một số biện pháp được thực hiện:

- Ưu tiên sử dụng năng lượng tái tạo: Sử dụng năng lượng từ các nguồn tái tạo như năng lượng mặt trời, gió hoặc thủy điện có thể giảm lượng nhiệt thải tạo ra từ các nguồn năng lượng hóa thạch.

- Cải tiến hiệu suất năng lượng: Các quy trình sản xuất và công nghệ có thể được cải tiến để tận dụng nhiệt thải và giảm sự thất thoát nhiệt.

- Áp dụng quy định và tiêu chuẩn nghiêm ngặt: Các quy định và tiêu chuẩn chất lượng môi trường cần được áp dụng để kiểm soát, xử lý và thải nhiệt thải một cách an toàn và có hiệu quả.

- Sử dụng công nghệ xanh: Công nghệ xanh có thể giúp giảm thiểu nhiệt thải và sử dụng lại năng lượng, ví dụ như hệ thống tái chế nhiệt thải và hệ thống năng lượng tái tạo.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhiệt thải":

Mở rộng toàn cầu, phát triển và tác động kinh tế của đất chua Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 171 - Trang 1-15 - 1995
Đất chua chiếm khoảng 30% hoặc 3950 triệu ha diện tích đất không có băng của thế giới và chủ yếu xuất hiện ở hai vành đai toàn cầu nơi chúng phát triển dưới các chế độ độ ẩm udic hoặc ustic. Vành đai phía bắc (khí hậu lạnh và ôn đới) chủ yếu được thống trị bởi các loại đất Spodosols, Alfisols, Inceptisols và Histosols, trong khi vành đai nhiệt đới phía nam chủ yếu được hình thành từ các loại đất Ultisols và Oxisols. Sáu mươi bảy phần trăm đất chua hỗ trợ cho rừng và đất rừng, trong khi khoảng 18% được bao phủ bởi thực vật savanna, đồng cỏ và thảo nguyên. Chỉ có 4,5% (179 triệu ha) diện tích đất chua được sử dụng cho cây trồng nông nghiệp. Một diện tích thêm 33 triệu ha được sử dụng cho các loại cây trồng nhiệt đới lâu năm. Giá trị sản xuất hàng năm ở những khu vực này khoảng 129 tỷ USD. Giá trị của các sản phẩm từ rừng, đất rừng và đồng cỏ vĩnh viễn trên đất chua rất khó để đánh giá. Rừng nhiệt đới và vùng đất ngập nước có vai trò vô giá trong sự cân bằng hệ sinh thái toàn cầu, khu vực và địa phương cũng như vai trò bảo vệ cho thực vật, động vật và nguồn nước. Trong khi đất chua ở vành đai phía bắc ngày càng được bảo vệ và tái trồng rừng, sự khai thác tàn phá gỗ và nông nghiệp dịch chuyển hiện đại lạm dụng đã góp phần vào sự mất mát hơn 250 triệu ha rừng nhiệt đới trong nửa sau thế kỷ này, để lại những vùng rộng lớn đồng cỏ nhân tạo trên đất chua bị xói mòn và thoái hóa nặng nề. Tác giả tin rằng nỗ lực phát triển đất chua cho nông nghiệp và lâm nghiệp agroforestry ở vùng nhiệt đới nên tập trung vào những vùng đất chua đã bị tẩy chay và bỏ hoang. Tuy nhiên, điều này sẽ khó khăn nếu không có sự đầu tư ban đầu đáng kể và công nghệ phù hợp. Một phương pháp phát triển ba bước được đề xuất, có thể giúp ngăn chặn hoặc dừng sự tàn phá hàng năm trên hơn 5 triệu ha rừng nhiệt đới bởi các "nông dân dịch chuyển không truyền thống". Điều này sẽ giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên mong manh trên đất chua nhiệt đới, vốn đang được coi là không thể thiếu cho sự sống trong tương lai trên trái đất.
#đất chua #rừng nhiệt đới #nông nghiệp bền vững #hệ sinh thái #phát triển bền vững
Tính toán dữ liệu nhiệt động lực học cho các chuyển tiếp có phân tử học bất kỳ từ các đường cong nóng chảy ở trạng thái cân bằng Dịch bởi AI
Biopolymers - Tập 26 Số 9 - Trang 1601-1620 - 1987
Tóm tắt

Trong bài báo này, chúng tôi xây dựng các dạng tổng quát của các phương trình cần thiết để trích xuất dữ liệu nhiệt động lực học từ các đường cong chuyển tiếp ở trạng thái cân bằng trên các axit nucleic oligomeric và polymeric với tính phân tử bất kỳ. Đáng chú ý, vì các phương trình và giao thức là tổng quát, chúng cũng có thể được sử dụng để đặc trưng cho các quá trình cân bằng nhiệt động lực học trong các hệ thống khác ngoài axit nucleic. Chúng tôi sẽ tóm tắt cách thức các dạng giảm thiểu của các phương trình tổng quát đã được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng để đánh giá các chuyển tiếp đơn phân tử và đôi phân tử, và sau đó giải thích làm thế nào những phương trình này có thể được tổng quát hóa để tính toán các tham số nhiệt động lực học từ những quan sát thực nghiệm phổ biến cho các chuyển tiếp có tính phân tử cao hơn. Chúng tôi nhấn mạnh các điểm mạnh và điểm yếu của từng phương pháp phân tích dữ liệu để các nhà nghiên cứu có thể chọn phương pháp phù hợp nhất cho hoàn cảnh thực nghiệm của họ. Chúng tôi cũng mô tả cách phân tích các đường cong nhiệt lượng riêng và các đường cong nóng chảy phân biệt không nhiệt lượng nhằm trích xuất cả dữ liệu nhiệt động lực học độc lập với mô hình và phụ thuộc vào mô hình cho các chuyển tiếp với bất kỳ tính phân tử nào. Các phương trình tổng quát và phương pháp phân tích được mô tả trong bài báo này sẽ đặc biệt hữu ích cho các phòng thí nghiệm hiện đang nghiên cứu các quá trình liên kết và phân ly trong axit nucleic có phân tử học lớn hơn hai.

Nanocomposites polyurethane với các loại organoclay khác nhau: Tính chất nhiệt cơ, hình thái, và khả năng thẩm thấu khí* Dịch bởi AI
Journal of Polymer Science, Part B: Polymer Physics - Tập 40 Số 7 - Trang 670-677 - 2002
Abstract

Các tính chất của nanocomposite polyurethane (PU) với ba loại organoclay khác nhau đã được so sánh dựa trên độ ổn định nhiệt, tính chất cơ học, hình thái và khả năng thẩm thấu khí. Hexadecylamine–montmorillonite, dodecyltrimethyl ammonium–montmorillonite, và Cloisite 25A được sử dụng làm organoclay để tạo ra các phim PU hybrid. Các tính chất được kiểm tra như một hàm của nồng độ organoclay trong polymer nền. Hình ảnh vi kính điện tử truyền dẫn cho thấy hầu hết các lớp đất sét được phân tán đồng nhất vào polymer nền ở quy mô nano, mặc dù một số hạt đất sét bị kết tụ. Hơn nữa, việc thêm chỉ một lượng nhỏ organoclay cũng đủ để cải thiện độ ổn định nhiệt và các tính chất cơ học của các phim PU hybrid, trong khi khả năng thẩm thấu khí thì giảm. Ngay cả những polymer có nồng độ organoclay thấp (3-4 wt %) cũng cho thấy giá trị độ bền và mô đun cao hơn nhiều so với PU nguyên chất. Khả năng thẩm thấu khí đã giảm theo tỷ lệ với sự gia tăng lượng organoclay trong nền PU. © 2002 Wiley Periodicals, Inc. J Polym Sci Part B: Polym Phys 40: 670–677, 2002; DOI 10.1002/polb.10124

Hình thành các tinh thể ZrO2 trong môi trường thủy nhiệt với các thành phần hóa học khác nhau Dịch bởi AI
Russian Journal of General Chemistry - Tập 72 - Trang 849-853 - 2002
Sự hình thành các tinh thể ZrO2 với các dạng biến thể khác nhau đã được nghiên cứu liên quan đến thành phần hóa học của dung dịch thủy nhiệt và các đặc điểm động học của quá trình. Tác động mạnh mẽ nhất lên cấu trúc của ZrO2 là do việc bổ sung các fluorid kim loại kiềm hoặc iodid kali vào dung dịch thủy nhiệt, dẫn đến việc hình thành chủ yếu các tinh thể ZrO2 dạng đơn tà. Cơ chế mà các hydroxid và halid kim loại kiềm tác động lên trạng thái pha của các tinh thể ZrO2 đã được tiết lộ.
#ZrO2 #tinh thể nano #dung dịch thủy nhiệt #cấu trúc #trạng thái pha
Sự ảnh hưởng của nhiệt độ mọc màng lên hình thái và cấu trúc của màng mỏng ZnO
Kẽm oxit (ZnO) là một trong những oxit có triển vọng nhất trong ứng dụng nhiều ngành công nghiệp nhờ sở hữu các tính chất độc đáo. Nhờ có vùng cấm rộng trực tiếp (3,37 eV) và năng lượng liên kết exciton mạnh (60 meV) ở nhiệt độ thường, ZnO không chỉ dẫn điện tốt mà còn có khả năng truyền ánh sáng nhìn thấy và phát ra tia UV. Trong bài báo này, chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ mọc màng lên màng mỏng ZnO bằng cách thay đổi nhiệt độ mọc màng từ 400 oC đến 450 oC. Phún xạ magnetron tần số vô tuyến (radio-frequency - RF) được sử dụng chế tạo màng mỏng ZnO trên đế Si (100). Kết quả từ phương pháp kính hiển vi lực nguyên tử (atomic force microscopy - AFM) cho thấy độ nhám hiệu dụng (root mean square - RMS) giảm từ 6,1 ± 1,0 nm xuống 4,8 ± 0,6 nm khi nhiệt độ mọc màng tăng lên. Hình XRD cho thấy sự tăng cường cấu trúc của ZnO khi tăng nhiệt độ mọc màng. Các phát hiện của chúng tôi chỉ ra rằng việc kiểm soát nhiệt độ mọc màng là yếu tố quan trọng trong việc chế tạo màng mỏng ZnO chất lượng cao.
#Zinc Oxide #ZnO #Thin films #RF-magnetron sputtering #Growth temperature
Mối quan hệ giữa ENSO và số lượng, cấp độ Xoáy thuận Nhiệt đới trên khu vực Tây Bắc - Thái Bình Dương, Biển Đông giai đoạn 1951-2015
Tóm tắt:*Việc phân định trạng thái các năm ENSO (El Niño, La Niña hay Neutral) theo dị thường nhiệt độ nước biển vùng Nino3.4 trung bình của 6 tháng mùa bão (từ tháng 6 đến tháng 11) vừa đảm bảo sự thống nhất với các thời kỳ ENSO theo phân loại của NOAA vừa mang lại những thuận lợi khi xem xét mối quan hệ giữa ENSO và hoạt động của XTNĐ trên khu vực TBTBD và BĐ. Theo cách phân loại này, trong giai đoạn 1951-2015 có 17 năm (26%) ở trạng thái El Niño, 16 năm (25%) ở trạng thái La Niña và 32 năm (49%) ở trạng thái trung tính. Kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa ENSO và số lượng, cấp độ của các XTNĐ hoạt động trên hai khu vực TBTBD và BĐ qua bộ số liệu của JWTC giai đoạn 1951-2015 cho thấy trên khu vực TBTBD, số lượng XTNĐ trong các năm El Niño và La Niña tương đương nhau ở khoảng 27-28 cơn/năm ít hơn trong các năm trung tính ở khoảng 28-29 cơn/năm. Trong khi đó trên khu vực BĐ số lượng XTNĐ có xu hướng đạt 12-13 cơn/năm trong các năm La Niña (chiếm khoảng 45-48% số lượng XTNĐ trên TBTBD) cao hơn so với khoảng 11-12 cơn/năm ở các năm trung tính (39-40%) và thấp nhất ở mức 8-9 cơn/năm trong những năm El Niño (31-33%). Trong 2 khu vực nghiên cứu, tỷ lệ XTNĐ là bão rất mạnh và ATNĐ ở khu vực TBTBD nhiều hơn khu vực BĐ trong khi tỷ lệ XTNĐ là bão và bão mạnh ở BĐ lại cao hơn TBTBD. Bên cạnh đó, tỷ lệ XTNĐ là bão rất mạnh chiếm phần lớn trong tổng số XTNĐ hoạt động trên 2 khu vực nghiên cứu, trung bình đạt 59,9% trên khu vực TBTBD và 47,3% trên khu vực BĐ. Trong 3 trạng thái ENSO, ở các năm El Niño bão rất mạnh có tỷ lệ xảy ra cao nhất ở cả hai khu vực (68,5% trên TBTBD và 53,1% trên BĐ), ít nhất (52,1%) trên khu vực TBTBD trong năm La Niña và (45%) khu vực BĐ ở những năm trung tính. Trong khi đó bão mạnh trên hai khu vực TBTBD và BĐ giảm dần từ các năm trung tính (tương ứng với 2 khu vực lần lượt là 16,3% và 22,4%), đến năm La Niña (14,3% và 14,7%) và thấp nhất ở những năm El Niño (12,4% và 14,5%). Trong 4 cấp độ bão, tỷ lệ XTNĐ hoạt động trên BĐ là bão rất mạnh từ khu vực TBTBD đi vào cao nhất, tiếp đến là bão, bão mạnh và ít nhất là ATNĐ. Trong số bão rất mạnh và bão mạnh hoạt động trên khu vực BĐ thì tập trung cao nhất ở những năm El Niño tương ứng với 77% (bão rất mạnh), 65% (bão mạnh) và thấp nhất ở năm La Niña 62% (bão rất mạnh), 58% (bão mạnh) trong khi ở 2 cấp độ còn lại (bão và ATNĐ) tỷ lệ này ở các năm La Niña đều thấp hơn năm El Niño. Từ khóa: Xoáy thuận nhiệt đới, ENSO, Cường độ, Tây Bắc Thái Bình Dương, Biển Đông ...  
Phân lập, tuyển chọn và sử dụng vi sinh vật ưa nhiệt trong phân hủy sinh khối bùn thải nhà máy tinh bột sắn FOCOCEV Thừa Thiên Huế
Tóm tắt: Bằng việc sử dụng môi trường nuôi cấy làm giàu và các loại môi trường phân lập thích hợp, đã phân lập được 78 chủng vi khuẩn, 73 chủng xạ khuẩn và 53 chủng nấm mốc ưa nhiệt từ bùn thải nhà máy tinh bột sắn FOCOCEV Thừa Thiên Huế. Tiến hành đánh giá hoạt lực phân hủy chất hữu cơ bằng phương pháp khuếch tán enzyme, đã tuyển chọn được các chủng vi khuẩn V18, chủng xạ khuẩn X38 và chủng nấm mốc N37 từ các chủng được phân lập. Các chủng này đã không thể hiện đặc tính đối kháng lẫn nhau. Dựa vào đặc điểm hình thái và phân tích trình tự 16S rRNA (hoặc 28S rRNA) đã xác định được các chủng V18, X38 và N37 lần lượt thuộc các loài Bacillus subtilis, Aspergillus fumigatus và Streptomyces glaucescens. So với đối chứng và các công thức thí nghiệm khác, công thức CT8 với việc sử dụng tất cả các chủng được tuyển chọn đã nâng cao đáng kể hiệu quả phân hủy sinh khối bùn thải nhà máy tinh bột sắn FOCOCEV Thừa Thiên Huế với độ giảm khối lượng, thể tích và cellulose lần lượt là 19,73; 33,75 và 29,33%. Vì vậy tập hợp giống vi sinh vật ưa nhiệt này có thể được xem xét sử dụng trong sản xuất phân bón hữu cơ từ bùn thải nhà máy tinh bột sắn FOCOCEV Thừa Thiên Huế nói riêng và bùn thải hữu cơ nói chung. Từ khóa: Vi sinh vật ưa nhiệt, bùn thải, ủ hiếu khí.
Thu hồi nhiệt từ dòng khói thải ra khỏi hệ thống lò hơi thu hồi nhiệt bằng chu trình rankine hữu cơ tại Nhà máy Điện Nhơn Trạch 1 & 2 để sản xuất thêm điện
Tạp chí Dầu khí - Tập 5 - Trang 38 - 42 - 2022
Sau khi được thu hồi nhiệt tại các lò hơi thu hồi nhiệt, khói thải từ các turbine khí tại Nhà máy Điện Nhơn Trạch 1 & 2 có nhiệt độ khoảng 100 - 113oC. Nhiệt lượng trong dòng khói thải không được thu hồi bằng các phương án thu hồi nhiệt truyền thống do không mang lại hiệu quả. Chu trình rankine hữu cơ (organic rankine cycle, ORC) sử dụng các môi chất hữu cơ có khả năng bay hơi ở nhiệt độ thấp nên có khả năng thu hồi nhiệt từ dòng khói thải nhiệt độ thấp. Kết quả khảo sát chu trình ORC cho thấy, với môi chất R245fa công suất Nhà máy Điện Nhơn Trạch 1 tăng thêm 2 MW và với môi chất R113 công suất Nhà máy Điện Nhơn Trạch 2 tăng thêm 3,6 MW. 
#Organic Rankine cycle #flue gas #organic fluid #power capacity #Nhon Trach 1 gas power plant #Nhon Trach 2 gas power plant
Nghiên cứu mô phỏng quá trình truyền nhiệt của thiết bị trao đổi nhiệt ống lồng ống thu hồi nhiệt thải hệ thống điều hòa không khí water chiller
Nghiên cứu này thực hiện khảo sát đặc tính truyền nhiệt của thiết bị trao đổi nhiệt ống lồng ống trong hệ thống tích trữ nhiệt (TES). Thiết bị trao đổi nhiệt này được lắp đặt ở đầu đẩy của máy nén trong hệ thống điều hòa không khí water chiller để thu hồi nhiệt thải của môi chất lạnh ra khỏi máy nén có nhiệt độ cao. Mô phỏng số được thực hiện cho bộ trao đổi nhiệt ống lồng ống với các lưu lượng nước khác nhau để khảo sát cho những thiết kế tối ưu. Quá trình khảo sát đặc tính truyền nhiệt của thiết bị ống lồng ống được thực hiện bởi phần mềm mô phỏng động lực học tính toán lưu chất ANSYS. Phương pháp này dựa trên các định luật bảo toàn động lượng, năng lượng và khối lượng. Các kết quả chỉ ra rằng nhiệt độ nước ra khỏi bộ trao đổi nhiệt ống lồng ống tăng lên khi lưu lượng nước vào giảm. Bên cạnh đó, nhiệt độ ra khỏi bộ trao đổi nhiệt ống lồng ống của môi chất cũng giảm. Ngoài ra, các kết quả cũng thể hiện sự so sánh nhiệt độ nước đầu ra giữa mô phỏng và thực nghiệm.
#Thermal energy storage #Heat pump #Waste heat recovery #Computational Fluid Dynamic #Heat transfer
Đặc điểm hoạt động của Xoáy thuận Nhiệt đới trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, Biển Đông và vùng trực tiếp chịu ảnh hưởng trên lãnh thổ Việt Nam giai đoạn 1978-2015
Tóm tắt: Nghiên cứu này sử dụng nguồn số liệu của Trung tâm Khí tượng Khu vực RSMC (Nhật Bản) để nghiên cứu đặc điểm hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) trên khu vực Tây Bắc- Thái Bình Dương (TBTBD), Biển Đông (BĐ) và vùng trực tiếp bị ảnh hưởng trên lãnh thổ Việt Nam giai đoạn 1978-2015. Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng XTNĐ tại hai khu vực BĐ và TBTBD thể hiện mối quan hệ tuyến tính yếu với hệ số tương quan chỉ đạt R2=0,3. Tính chung trên cả hai khu vực TBTBD và BĐ, trên 68% số lượng XTNĐ thường xuất hiện trong các tháng từ 6 tới 11, trong đó 41% tập trung vào tháng 8 và 9 trên TBTBD, còn trên BĐ XTNĐ chủ yếu tập trung vào các tháng từ 7 tới 10. Trong giai đoạn 1978-2015, số lượng XTNĐ đạt cường độ bão rất mạnh chiếm khoảng 55% và 34% trong tổng số lượng XTNĐ tương ứng trên khu vực TBTBD và BĐ. Khoảng 58-59% số cơn bão thông thường và bão mạnh khi đi vào BĐ vẫn duy trì được cường độ của chúng khi ở TBTBD; tỷ lệ này giảm xuống 25% đối với các cơn bão rất mạnh. Mối quan hệ tuyến tính giữa pmin và vmax trên khu vực TBTBD biểu thị tốt hơn so với trên khu vực BĐ, với hệ số tương quan tương ứng với 2 khu vực là 0,935 và 0,773. Số lượng XTNĐ gây ảnh hưởng trực tiếp đến các khu vực ven biển và trên đất liền Việt Nam cũng được chỉ ra trong nghiên cứu này.Từ khóa: Xoáy thuận nhiệt đới, vùng ảnh hưởng trực tiếp của XTNĐ, Biển Đông, bão.
Tổng số: 76   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8